-
21/10/2017
Hội chứng thận hư nguyên phát (PNS) chiếm hơn 90% các hội chứng thận hư ở trẻ em (NS), là một trong những bệnh phổ biến và thường xuyên xảy ra ở hệ tiết niệu trẻ em, với tỷ lệ mắc hàng năm là 2/100.000 – 4/100.000. 10% đến 20% trẻ PNS có biểu hiện kháng hormone. 40% trẻ em mắc hội chứng thận hư kháng hormone (SRNS) có loại bệnh lý là xơ cứng cầu thận phân đoạn khu trú (FSGS) sẽ tiến triển thành bệnh thận giai đoạn cuối (ESRD). Với sự phát triển của di truyền học phân tử, các gen liên quan đến bệnh thận đóng một vai trò quan trọng trong việc phân tích căn nguyên của nó. Hơn 27 gen podocyte gây ra kháng hormone đã được tìm thấy. Trong những năm gần đây, nghiên cứu về đột biến gen SRNS ở nhiều nước ngày càng tăng, có báo cáo cho thấy có những đột biến gen NPHS1 và CD2AP ở những trẻ em bị SRNS lệ thuộc trong cộng đồng.
Các bác sĩ của một bệnh viện lớn ở Trung Quốc phát hiện gen podocyte được thực hiện trên 30 trẻ em bị SRNS, và tỷ lệ phát hiện đột biến gen NPHS1 và WT1 là 10%. NPHS2, NPHS1, CD2AP và WT1 là những đột biến gen đơn phổ biến ở Trung Quốc có thể gây ra SRNS, nhưng có sự khác biệt giữa các vùng gen kháng hormone. Tuy nhiên, hầu hết các đột biến gen podocyte khiến SRNS kháng các chất ức chế miễn dịch khác nhau và có tiên lượng xấu.
Trung tâm Thận Nhi của Bệnh viện Liên kết 1 của Đại học Tôn Trung Sơn đã thường xuyên thực hiện phát hiện gen kháng thuốc ở trẻ em mắc SRNS kể từ năm 2014. Nghiên cứu này đã phân tích hội đủ các đột biến gen và đặc điểm của trẻ em mắc SRNS, hiệu xét nghiệm di truyền của chúng và phân tích trẻ em có đột biến gen. Các biểu hiện lâm sàng và tiên lượng của SRNS cung cấp bằng chứng cho chẩn đoán di truyền và tiên lượng của trẻ SRNS lâm sàng.
1. Vật liệu và phương pháp
1.1 Đối tượng nghiên cứu
Từ ngày 31 tháng 8 năm 2014 đến ngày 1 tháng 9 năm 2016, 57 trẻ em mắc SRNS đã phải nhập viện tại Trung tâm Thận Nhi của Bệnh viện Liên kết 1 của Đại học Tôn Trung Sơn. Trong số đó, 24 trẻ em được kiểm tra gen. Tiêu chuẩn thu nhận: 1. Tuổi khởi phát từ 3 tháng đến 14 tuổi; 2. Chẩn đoán lâm sàng là SRNS, nghĩa là điều trị prednisone đầy đủ (2 mg/kg hoặc 60 mg/m² mỗi ngày) > 4 tuần protein nước tiểu là tích cực; 3. Kháng thuốc lần đầu, liệu pháp hormone khởi phát lần đầu là đủ, protein nước tiểu tồn tại trên 4 tuần; 4. Dữ liệu đã hoàn tất để phân tích. Trẻ bị viêm thận thứ phát và NS bẩm sinh như viêm thận ban xuất huyết, bệnh thận IgA, viêm thận lupus, viêm thận liên quan đến viêm gan B, v.v. Nghiên cứu này đã được phê duyệt bởi ủy ban Đạo đức Y tế của Bệnh viện Trực thuộc Đại học Tôn Trung Sơn. Việc xét nghiệm di truyền đã được người giám hộ của đứa trẻ chấp thuận và ký vào một mẫu đơn đồng ý có đầy đủ thông tin.
1.2 Phương pháp
1.2.1 Kiểm tra di truyền
Lấy 3 mL máu ngoại vi chống đông bằng natri citrat, và chiết xuất DNA bộ gen bằng cách sử dụng Bộ dụng cụ chấp lỏng của Công ty TNHH Công nghệ gen Mykino Bắc Kinh. Phương pháp khuếch đại PCR và giải trình tự DNA thể hai được sử dụng để kiểm tra di truyền của trẻ em. 23 trường hợp bằng điều kiện bệnh thận được sử dụng cho NPHS2, NPHS1, WT1, PLCE1, MYO1E, LAMB2, CD2AP, SMARCAL1, INF2, TRPC6, COQ6, ITG, v.v. 27 – 162 Hai gen mục tiêu đã được kiểm tra, và một trường hợp được giải trình tự bằng cách sử dụng toàn bộ trình tự gen ngoại lai. Dữ liệu thu được bằng cách giải trình tự được lọc, tách, so sánh với các trình tự tham chiếu, chú thích, v.v. để thu được thông tin đột biến gen và ý nghĩa sinh học của nó.
1.2.2 Phân loại bệnh lý
Được chia thành FSGS, thay đổi tối thiểu (MCD), viêm cầu thận tăng sinh trung bì (MsPGN), v.v.
1.2.3 Đánh giá hiệu quả chữa bệnh
Bệnh thuyên giảm hoàn toàn: sinh hóa máu và nước tiểu hoàn toàn bình thường;
Bệnh thuyên giảm một phần: protein nước tiểu dương tính;
Không thuyên giảm: protein nước tiểu dương tính ≥;
ESRD: tỷ lệ thanh thải creatinin nội sinh <10 mL / (min · 1,73 m²), khó sống sót nếu không có liệu pháp thay thế chức năng thận;
Tử vong.
1.3 Xử lý thống kê
Phần mềm SPSS 20.0 đã được sử dụng để phân tích. Dữ liệu định lượng được thể hiện bằng ± s hoặc trung vị (phạm vi liên phân vị), sử dụng kiểm định t, phân tích phương sai (phân phối chuẩn) hoặc phân tích kiểm tra tổng thể hạng (phân phối không chuẩn). Dữ liệu định tính được phân tích theo tỷ lệ phần trăm hoặc tỷ lệ thành phần mà việc sử dụng phép thử chi-squared hoặc phép thử phân tích chính xác của Fisher <0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê.
2. Kết quả
2.1 Phát hiện đột biến gen ở trẻ em mắc SRNS
Trong số 24 trẻ, có 14 trẻ nam và 10 trẻ nữ; độ tuổi khởi phát từ 0,5 đến 13,0 tuổi, tuổi trung bình là 4,7 tuổi; 9 trường hợp loại đơn giản, 15 trường hợp thuộc loại viêm thận; tất cả đều ban đầu kháng thuốc; 10 trường hợp đại ra máu; 20 trường hợp Sinh thiết thận đã được thực hiện, bao gồm 5 trường hợp MCD, 11 trường hợp FSGS và 4 trường hợp MsPGN.
Tiên lượng: 5 trường hợp thuyên giảm hoàn toàn, 4 trường hợp thuyên giảm một phần, 7 trường hợp không thuyên giảm, 8 trường hợp ESRD (6 trường hợp phải ghép thận). Trong đó, 8 trường hợp (33,3%) được phát hiện có đột biến gen, gồm 3 trường hợp (37,5%) NPHS2, 2 trường hợp (25,0%) NPHS1, 2 trường hợp (25,0%) INF2 và 1 trường hợp MYO1E (12,5%).
Sự thay đổi nucleotide của 3 gen đột biến NPHS2 là c. 467 dupT, C.545_546 del, C 0,412 C > T, các amino axit thay đổi P. L 156 FFS *, P. K 182 R < FS * 13 là, P. R < 138 X. Sự thay đổi nucleotide của hai gen đột biến NPHS1 là c. 1643 T > G, c. 1298 del Một, các amino axit thay đổi là p. V 548 G và p. K 433 fs. Ví dụ 2 gen thay đổi nucleotide bị đột biến INF2 C. C 1049 T, C. G 3638 Một, các amino axit thay đổi P. P 350 L, P. R < 1213 Q. Ví dụ 1 gen thay đổi nucleotide MYO1E đột biến C 0,420 G > C, các axit amin thay đổi P. Q 140 H.
Tuổi khởi phát của 8 trẻ bị đột biến gen là 0,6-11,8 tuổi [(3,97 ± 3,61) tuổi], tỷ lệ nam nữ là 1,67 1,00, loại lâm sàng chính là viêm thận (6/8 trường hợp). Nằm trong số tám đứa trẻ được làm sinh thiết thận. Bốn trong số chúng có loại bệnh lý là FSGS (2 đột biến gen NPHS2, 1 đột biến gen NPHS1, 1 đột biến gen MYO1E) và 1 trường hợp là MCD (đột biến gen NPHS2).
Ba trẻ em bị đột biến đa gen: Một trường hợp có đột biến ở gen NPHS2, MYO1E, INF2; một trường hợp có đột biến ở NPHS2, INF2 và một trường hợp có đột biến ở NPHS1 và MYO1E. Những đứa trẻ mắc đột biến gen đa gen có tuổi khởi phát là 0,6-7,6 tuổi (3,66 ± 2,56 tuổi).
2.2 Mối liên hệ giữa các đột biến gen và đáp ứng điều trị
Các loại bệnh lý: Bệnh lý FSGS chiếm tỷ lệ cao hơn ở trẻ bị đột biến gen (4/8 trường hợp, 50,0%) so với trẻ không có đột biến gen (7/16 trường hợp, 43,8%). Tỷ lệ này có sự khác biệt không đáng kể (p>0,05). Tất cả trẻ mắc bệnh lý FSGS có đáp ứng điều trị kém.
3. Thảo luận
Hội chứng thận hư nguyên phát kháng hormone là một vấn đề phổ biến trong thận học nhi khoa. Đột biến gen là yếu tố quan trọng gây ra SRNS kháng thuốc. Các nghiên cứu hiện tại cho thấy tỷ lệ đột biến gen trong các nghiên cứu khác nhau là khác nhau. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ đột biến gen là 33,3%, tương đương với mức nghiên cứu được thực hiện ở các quốc gia khác. NPHS2, NPHS1 và INF2 là những đột biến gen phổ biến nhất, cho thấy sự khác biệt lớn giữa các quốc gia và khu vực.
Mặc dù các đột biến gen NPHS2 và NPHS1 là nguyên nhân chính gây ra SRNS, nhưng việc phát hiện ra chúng vẫn còn thiếu sót. Đặc biệt, gen INF2 và MYO1E được báo cáo là nguyên nhân gây bệnh gần đây, cho thấy sự phát hiện của chúng vẫn cần được mở rộng trong các nghiên cứu lâm sàng trong tương lai. Ngoài ra, nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ em có đột biến gen đa gen thường có khởi phát bệnh ở tuổi nhỏ hơn và có tiên lượng xấu hơn.
Các bác sĩ của một bệnh viện lớn ở Trung Quốc phát hiện gen podocyte được thực hiện trên 30 trẻ em bị SRNS, và tỷ lệ phát hiện đột biến gen NPHS1 và WT1 là 10%. NPHS2, NPHS1, CD2AP và WT1 là những đột biến gen đơn phổ biến ở Trung Quốc có thể gây ra SRNS, nhưng có sự khác biệt giữa các vùng gen kháng hormone. Tuy nhiên, hầu hết các đột biến gen podocyte khiến SRNS kháng các chất ức chế miễn dịch khác nhau và có tiên lượng xấu.
Trung tâm Thận Nhi của Bệnh viện Liên kết 1 của Đại học Tôn Trung Sơn đã thường xuyên thực hiện phát hiện gen kháng thuốc ở trẻ em mắc SRNS kể từ năm 2014. Nghiên cứu này đã phân tích hội đủ các đột biến gen và đặc điểm của trẻ em mắc SRNS, hiệu xét nghiệm di truyền của chúng và phân tích trẻ em có đột biến gen. Các biểu hiện lâm sàng và tiên lượng của SRNS cung cấp bằng chứng cho chẩn đoán di truyền và tiên lượng của trẻ SRNS lâm sàng.
1. Vật liệu và phương pháp
1.1 Đối tượng nghiên cứu
Từ ngày 31 tháng 8 năm 2014 đến ngày 1 tháng 9 năm 2016, 57 trẻ em mắc SRNS đã phải nhập viện tại Trung tâm Thận Nhi của Bệnh viện Liên kết 1 của Đại học Tôn Trung Sơn. Trong số đó, 24 trẻ em được kiểm tra gen. Tiêu chuẩn thu nhận: 1. Tuổi khởi phát từ 3 tháng đến 14 tuổi; 2. Chẩn đoán lâm sàng là SRNS, nghĩa là điều trị prednisone đầy đủ (2 mg/kg hoặc 60 mg/m² mỗi ngày) > 4 tuần protein nước tiểu là tích cực; 3. Kháng thuốc lần đầu, liệu pháp hormone khởi phát lần đầu là đủ, protein nước tiểu tồn tại trên 4 tuần; 4. Dữ liệu đã hoàn tất để phân tích. Trẻ bị viêm thận thứ phát và NS bẩm sinh như viêm thận ban xuất huyết, bệnh thận IgA, viêm thận lupus, viêm thận liên quan đến viêm gan B, v.v. Nghiên cứu này đã được phê duyệt bởi ủy ban Đạo đức Y tế của Bệnh viện Trực thuộc Đại học Tôn Trung Sơn. Việc xét nghiệm di truyền đã được người giám hộ của đứa trẻ chấp thuận và ký vào một mẫu đơn đồng ý có đầy đủ thông tin.
1.2 Phương pháp
1.2.1 Kiểm tra di truyền
Lấy 3 mL máu ngoại vi chống đông bằng natri citrat, và chiết xuất DNA bộ gen bằng cách sử dụng Bộ dụng cụ chấp lỏng của Công ty TNHH Công nghệ gen Mykino Bắc Kinh. Phương pháp khuếch đại PCR và giải trình tự DNA thể hai được sử dụng để kiểm tra di truyền của trẻ em. 23 trường hợp bằng điều kiện bệnh thận được sử dụng cho NPHS2, NPHS1, WT1, PLCE1, MYO1E, LAMB2, CD2AP, SMARCAL1, INF2, TRPC6, COQ6, ITG, v.v. 27 – 162 Hai gen mục tiêu đã được kiểm tra, và một trường hợp được giải trình tự bằng cách sử dụng toàn bộ trình tự gen ngoại lai. Dữ liệu thu được bằng cách giải trình tự được lọc, tách, so sánh với các trình tự tham chiếu, chú thích, v.v. để thu được thông tin đột biến gen và ý nghĩa sinh học của nó.
1.2.2 Phân loại bệnh lý
Được chia thành FSGS, thay đổi tối thiểu (MCD), viêm cầu thận tăng sinh trung bì (MsPGN), v.v.
1.2.3 Đánh giá hiệu quả chữa bệnh
Bệnh thuyên giảm hoàn toàn: sinh hóa máu và nước tiểu hoàn toàn bình thường;
Bệnh thuyên giảm một phần: protein nước tiểu dương tính;
Không thuyên giảm: protein nước tiểu dương tính ≥;
ESRD: tỷ lệ thanh thải creatinin nội sinh <10 mL / (min · 1,73 m²), khó sống sót nếu không có liệu pháp thay thế chức năng thận;
Tử vong.
1.3 Xử lý thống kê
Phần mềm SPSS 20.0 đã được sử dụng để phân tích. Dữ liệu định lượng được thể hiện bằng ± s hoặc trung vị (phạm vi liên phân vị), sử dụng kiểm định t, phân tích phương sai (phân phối chuẩn) hoặc phân tích kiểm tra tổng thể hạng (phân phối không chuẩn). Dữ liệu định tính được phân tích theo tỷ lệ phần trăm hoặc tỷ lệ thành phần mà việc sử dụng phép thử chi-squared hoặc phép thử phân tích chính xác của Fisher <0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê.
2. Kết quả
2.1 Phát hiện đột biến gen ở trẻ em mắc SRNS
Trong số 24 trẻ, có 14 trẻ nam và 10 trẻ nữ; độ tuổi khởi phát từ 0,5 đến 13,0 tuổi, tuổi trung bình là 4,7 tuổi; 9 trường hợp loại đơn giản, 15 trường hợp thuộc loại viêm thận; tất cả đều ban đầu kháng thuốc; 10 trường hợp đại ra máu; 20 trường hợp Sinh thiết thận đã được thực hiện, bao gồm 5 trường hợp MCD, 11 trường hợp FSGS và 4 trường hợp MsPGN.
Tiên lượng: 5 trường hợp thuyên giảm hoàn toàn, 4 trường hợp thuyên giảm một phần, 7 trường hợp không thuyên giảm, 8 trường hợp ESRD (6 trường hợp phải ghép thận). Trong đó, 8 trường hợp (33,3%) được phát hiện có đột biến gen, gồm 3 trường hợp (37,5%) NPHS2, 2 trường hợp (25,0%) NPHS1, 2 trường hợp (25,0%) INF2 và 1 trường hợp MYO1E (12,5%).
Sự thay đổi nucleotide của 3 gen đột biến NPHS2 là c. 467 dupT, C.545_546 del, C 0,412 C > T, các amino axit thay đổi P. L 156 FFS *, P. K 182 R < FS * 13 là, P. R < 138 X. Sự thay đổi nucleotide của hai gen đột biến NPHS1 là c. 1643 T > G, c. 1298 del Một, các amino axit thay đổi là p. V 548 G và p. K 433 fs. Ví dụ 2 gen thay đổi nucleotide bị đột biến INF2 C. C 1049 T, C. G 3638 Một, các amino axit thay đổi P. P 350 L, P. R < 1213 Q. Ví dụ 1 gen thay đổi nucleotide MYO1E đột biến C 0,420 G > C, các axit amin thay đổi P. Q 140 H.
Tuổi khởi phát của 8 trẻ bị đột biến gen là 0,6-11,8 tuổi [(3,97 ± 3,61) tuổi], tỷ lệ nam nữ là 1,67 1,00, loại lâm sàng chính là viêm thận (6/8 trường hợp). Nằm trong số tám đứa trẻ được làm sinh thiết thận. Bốn trong số chúng có loại bệnh lý là FSGS (2 đột biến gen NPHS2, 1 đột biến gen NPHS1, 1 đột biến gen MYO1E) và 1 trường hợp là MCD (đột biến gen NPHS2).
Ba trẻ em bị đột biến đa gen: Một trường hợp có đột biến ở gen NPHS2, MYO1E, INF2; một trường hợp có đột biến ở NPHS2, INF2 và một trường hợp có đột biến ở NPHS1 và MYO1E. Những đứa trẻ mắc đột biến gen đa gen có tuổi khởi phát là 0,6-7,6 tuổi (3,66 ± 2,56 tuổi).
2.2 Mối liên hệ giữa các đột biến gen và đáp ứng điều trị
Các loại bệnh lý: Bệnh lý FSGS chiếm tỷ lệ cao hơn ở trẻ bị đột biến gen (4/8 trường hợp, 50,0%) so với trẻ không có đột biến gen (7/16 trường hợp, 43,8%). Tỷ lệ này có sự khác biệt không đáng kể (p>0,05). Tất cả trẻ mắc bệnh lý FSGS có đáp ứng điều trị kém.
3. Thảo luận
Hội chứng thận hư nguyên phát kháng hormone là một vấn đề phổ biến trong thận học nhi khoa. Đột biến gen là yếu tố quan trọng gây ra SRNS kháng thuốc. Các nghiên cứu hiện tại cho thấy tỷ lệ đột biến gen trong các nghiên cứu khác nhau là khác nhau. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ đột biến gen là 33,3%, tương đương với mức nghiên cứu được thực hiện ở các quốc gia khác. NPHS2, NPHS1 và INF2 là những đột biến gen phổ biến nhất, cho thấy sự khác biệt lớn giữa các quốc gia và khu vực.
Mặc dù các đột biến gen NPHS2 và NPHS1 là nguyên nhân chính gây ra SRNS, nhưng việc phát hiện ra chúng vẫn còn thiếu sót. Đặc biệt, gen INF2 và MYO1E được báo cáo là nguyên nhân gây bệnh gần đây, cho thấy sự phát hiện của chúng vẫn cần được mở rộng trong các nghiên cứu lâm sàng trong tương lai. Ngoài ra, nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ em có đột biến gen đa gen thường có khởi phát bệnh ở tuổi nhỏ hơn và có tiên lượng xấu hơn.
0
